Chủ nghĩa duy vật biện chứng được sáng lập bởi C.Mác và Ph.Ăngghen vào giữa thế kỉ XIX, về sau được V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX, là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, có hai nguyên lý cơ bản nhất, một trong số đó là nguyên lý về sự phát triển. Nó khái quát một trong những thuộc tính phổ biến nhất của thế giới vật chất là vật chất luôn vận động, phát triển.
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng đồng thời nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp. Đối lập với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật khái niệm: phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên; từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy khái niệm “phát triển” không đồng nhất khái niệm “vận động” (nói chung); đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của những sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú:
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và mọi quá trình, mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
. Đối với tự nhiên: sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể, khả năng tiến hóa của cơ thể, khả năng hoàn thiện quá trình trao đổi VC giữa cơ thể và môi trường. Từ vô sinh đến hữu sinh.
. Đối với xã hội: Sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của con người giải phóng con người và tạo điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách của bản thân.
. Đối với tư duy: Sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác… Đó là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
Sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Xét trong không gian hẹp và những trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, đi xuống, vòng tròn… Song xét cả quá trình, trong không gian rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng chủ đạo, thống trị. Khái quát tình hình, triết học Mác xít khẳng định phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động của mọi sự vật và hiện tượng. . Lê Nin quan niệm chỉ có phát triển mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt” của sự gián đoạn của tính tiệm tiến, của sự “chuyển hóa thành các mặt đối lập” của sự tiêu diệt cái cũ, và sự nảy sinh ra cái mới".
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, “… Lôgich biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động”…, trong sự biến đổi của nó”.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật hiện tượng theo hướng đi lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết: “... Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai”.
Gắn liền CNH với HĐH, đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020, về cơ bản Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2001), Đảng ta đã nhấn mạnh phải thực hiện “CNH đất nước theo hướng hiện đại” và coi đây là một nhiệm vụ trung tâm, phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Việc chuyển từ quan niệm “công nghiệp hóa” sang quan niệm “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại” (Đại hội VII) và “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đại hội Đảng lần thứ VIII và Đại hội Đảng lần thứ IX), là một sự phát triển quan trọng trong tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã khẳng định, “CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Cũng bắt đầu từ đây, một quan niệm mới về CNH ngày càng được định hình rõ nét, CNH không chỉ đơn giản là phát triển công nghiệp, xây dựng nhà máy. Đó là quá trình cải biến căn bản, toàn diện để tạo nền tảng của một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế tiên tiến, quan hệ sản xuất phù hợp sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và chính sách phát triển vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam. Đó cũng là quá trình tăng cường nguồn lực con người, năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng theo hướng hiện đại, thân thiện và bảo vệ môi trường theo quan điểm phát triển bền vững.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, nó giúp chúng ta nâng cao được nhận thức được những tính chất phức tạp, quanh co về sự vật, hiện tượng trong thế giới quan, đồng thời giúp ta giải quyết được những mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, bản thân chúng ta là cán bộ, công nhân, viên chức, lao động muốn có sự thăng tiến trong công việc đòi hỏi phải hiểu rõ bản chất của công việc mình đang làm, từ đó học tập, tìm hiểu những cách làm mới, hiệu quả hơn để làm tốt hơn công việc, đó gọi là sự phát triển trong con người.
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng đồng thời nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp. Đối lập với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật khái niệm: phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên; từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy khái niệm “phát triển” không đồng nhất khái niệm “vận động” (nói chung); đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của những sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú:
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và mọi quá trình, mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
. Đối với tự nhiên: sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể, khả năng tiến hóa của cơ thể, khả năng hoàn thiện quá trình trao đổi VC giữa cơ thể và môi trường. Từ vô sinh đến hữu sinh.
. Đối với xã hội: Sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của con người giải phóng con người và tạo điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách của bản thân.
. Đối với tư duy: Sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác… Đó là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
Sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Xét trong không gian hẹp và những trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, đi xuống, vòng tròn… Song xét cả quá trình, trong không gian rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng chủ đạo, thống trị. Khái quát tình hình, triết học Mác xít khẳng định phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động của mọi sự vật và hiện tượng. . Lê Nin quan niệm chỉ có phát triển mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt” của sự gián đoạn của tính tiệm tiến, của sự “chuyển hóa thành các mặt đối lập” của sự tiêu diệt cái cũ, và sự nảy sinh ra cái mới".
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, “… Lôgich biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động”…, trong sự biến đổi của nó”.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật hiện tượng theo hướng đi lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết: “... Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai”.
Gắn liền CNH với HĐH, đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020, về cơ bản Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2001), Đảng ta đã nhấn mạnh phải thực hiện “CNH đất nước theo hướng hiện đại” và coi đây là một nhiệm vụ trung tâm, phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Việc chuyển từ quan niệm “công nghiệp hóa” sang quan niệm “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại” (Đại hội VII) và “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đại hội Đảng lần thứ VIII và Đại hội Đảng lần thứ IX), là một sự phát triển quan trọng trong tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã khẳng định, “CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Cũng bắt đầu từ đây, một quan niệm mới về CNH ngày càng được định hình rõ nét, CNH không chỉ đơn giản là phát triển công nghiệp, xây dựng nhà máy. Đó là quá trình cải biến căn bản, toàn diện để tạo nền tảng của một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế tiên tiến, quan hệ sản xuất phù hợp sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và chính sách phát triển vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam. Đó cũng là quá trình tăng cường nguồn lực con người, năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng theo hướng hiện đại, thân thiện và bảo vệ môi trường theo quan điểm phát triển bền vững.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, nó giúp chúng ta nâng cao được nhận thức được những tính chất phức tạp, quanh co về sự vật, hiện tượng trong thế giới quan, đồng thời giúp ta giải quyết được những mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, bản thân chúng ta là cán bộ, công nhân, viên chức, lao động muốn có sự thăng tiến trong công việc đòi hỏi phải hiểu rõ bản chất của công việc mình đang làm, từ đó học tập, tìm hiểu những cách làm mới, hiệu quả hơn để làm tốt hơn công việc, đó gọi là sự phát triển trong con người.